Trong các sắc dân trên thế giới, có lẽ hiếm có dân tộc nào chịu số phận bị đọa đày, miệt thị và khổ ải như dân tộc Do Thái với hai lần thiên di, lần thứ nhất bắt đầu vào năm 722 và lần thứ hai bắt đầu vào năm 135 Trước công nguyên (BCE). Trải qua 21 thế kỷ lưu vong, tứ tán khắp nơi và đến năm 1948 người Do Thái mới thực hiện được ước mơ “Phục quốc” (Zionism), vốn được một nhà báo Do Thái gốc Áo-Hung khởi xướng tại châu Âu từ năm 1896. Trong cùng cảnh ngộ tương tự, nhiều sắc tộc, dân tộc khác trong cùng khu vực Lưỡng Hà đã bị tiêu vong hoặc đồng hóa từ lâu. Nhưng ngược lại, mặc dù chịu những đau khổ, mất mát (như nạn diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã rồi nạn lưu đày, trại tập trung) nhưng người Do Thái không chỉ duy trì được tôn giáo, văn hóa, nòi giống, bản sắc của mình, mà có những ảnh hưởng vượt trội trong cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng góp vào sự tiến bộ chung của nhân loại.
Với tổng số khoảng 14,5 triệu người sống rải rác tại 73 nước trên khắp thế giới (trong đó riêng tại Israel là 6 triệu, ở Mỹ 5,6 triệu), người Do Thái chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 0,2% tổng dân số thế giới. Tuy nhiên, trong số những người nhận được giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, kinh tế và y tế từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà khoa học gốc Do Thái đến từ các quốc gia khác nhau đoạt được khoảng 30% tổng số giải thưởng trên.
Về địa hình, địa thế, Israel nằm ở vị trí hết sức khắc nghiệt, khác với hầu hết các quốc gia khác trên thế giới:
- Israel nằm ở ngã ba của 3 châu lục (châu Á, châu Phi, châu Âu), là mục tiêu “chinh phạt” trong suốt gần 3000 năm qua của hàng chục đế chế châu Âu, Trung Đông, từ đế quốc La Mã, Assyria, Ottoman và gần đây nhất là Anh do có thành phố Jerusalem mà 3 tôn giáo lớn trên thế giới (Thiên Chúa giáo, Do Thái Giáo và Hồi giáo) đều coi là nơi đạo của mình sinh ra và “phát tích”;
- Thiên nhiên của Israel hết sức khắc nghiệt. Là quốc gia chỉ có diện tích trên 20,000 km2 (bằng hai phần ba diện tích đảo Hải Nam), mà Israel có tới 60% là sa mạc, lượng mưa trong năm vào khoảng 50mm, tức bằng 1/30 của Việt Nam;
- Dân số Israel chỉ có 8 triệu người (trong đó có 6 triệu người Do Thái), nhưng lại bị tứ bề bao vây bởi 300 triệu dân Hồi giáo Ả-rập thù địch.
Sau hàng ngàn năm lưu lạc, khi được Liên Hợp Quốc trao quyền lập quốc năm 1948, những người Do Thái từ khắp nơi quay trở về cố quốc, giành giật từng tấc đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi” với người Ả-rập. Cũng từ đây họ có cơ hội sử dụng tư chất Do Thái của mình để bảo vệ Đất Thánh (Holy Land), bắt đầu tiến trình được “chúa giao phó” nhằm cải tạo mảnh đất khô cằn này thành Miền Đất hứa (Promised Land) như trong Kinh Thánh Do Thái và bắt mảnh đất này “nhả kim cương”, chứ không phải nhả vàng!
Trên vùng đất khô cằn và thiếu nước này, người Do Thái đã cải tạo và biến Israel trở thành “ốc đảo”, là “vườn rau” của châu Âu trong mùa đông với một nền nông nghiệp có năng suất và hiệu quả cao nhất thế giới. Với một số dân làm nông nghiệp ít ỏi (chỉ 2,5% trên tổng số gần 8 triệu dân), Israel không chỉ tự túc “an ninh lương thực”, cung cấp đủ lương, thực phẩm chất lượng cao cho mình, mà mỗi năm nông nghiệp đem về 3,5 tỷ USD từ xuất khẩu. Một ha đất nông nghiệp của Israel có thể trồng được tới 300 tấn cà chua bi, còn “Cô gái Do Thái” (bò Israel) cho ra sản lượng sữa tới 12 tấn/năm, so với 9 tấn của “Cô gái Hà Lan”.
Một số nguyên nhân chính:
- Khoa học nông nghiệp phát triển: Các nhà khoa học Do Thái nghiên cứu, lai tạo các cây trồng thích hợp với thổ nhưỡng khắc nghiệt (chịu nhiệt độ cao, khô cằn cần ít nước), nhưng lại cho năng suất cao;
- Sử dụng có hiệu quả và triệt để “vàng trắng” là nước. Israel là nước đi đầu trên thế giới về công nghệ tái sử dụng nước (khoảng 70% lượng nước đã qua sử dụng); công nghệ biến nước biển thành nước lợ hoặc nước ngọt; công nghệ tưới nhỏ giọt (họ không dùng tưới phun vì lãng phí nước). Chẳng hạn, nước biển được dẫn vào các trang trại nuôi cá nước lợ (sau khi đã khử độ mặn); còn nước nuôi cá lại được tái sử dụng để tưới cây. Hệ thống tưới nước nhỏ giọt với các đường ống dẫn nước tới từng cây trồng trong với hệ thống máy tính đo độ ẩm, mức độ hấp thụ của cây để tự động điều chỉnh lượng nước tưới nhỏ giọt cho phù hợp.
Sức mạnh quốc phòng và ảnh hưởng của Israel
Nói đến bảo vệ đất nước Israel trong môi trường khắc nghiệt như vậy thì không thể không kể đến sức mạnh quốc phòng và ngành công nghiệp quốc phòng của nước này. Israel hiện được xếp trong số 10 quốc gia có sức mạnh quốc phòng lớn nhất thế giới, nhưng lại có ngân sách quốc phòng ở mức thấp nhất trong các nước này (15 tỷ USD/năm).
Để dễ hình dung, mặc dù dân số chỉ bằng khoảng 1/8 dân số nước Anh và ngân sách quốc phòng hàng năm chỉ bằng 1/3 của Anh, nhưng Israel có sức mạnh không quân đứng thứ tư thế giới, tương đương như của Anh. Như vậy nếu tính hiệu quả/số tiền chi cho quốc phòng (nói theo cách của Mỹ là “More Bang For the Buck”), thì Israel có thể là số 1 thế giới.
Tạm gác một bên con số thương vong của Israel và Hamas, trong cuộc chiến vừa qua, cả thế giới đều kinh ngạc khi chứng kiến tính hiệu quả của hệ thống đánh chặn tên lửa Mái Vòm (Iron Dome) khi chặn được tới 90% tên lửa của Hamas bắn sang Israel và gần 7000 tên lửa của Hamas bị phá hủy (cả do bị không quân Israel không kích nữa) có tầm bắn bao phủ 50% lãnh thổ và 80% dân số của Israel. Mặc dù ở ngay sát cạnh Gaza, nhưng tên lửa của Hamas bắn sang chỉ gây thương vong cho 6 dân thường (trong đó có 1 người Thái) và toàn bộ các hoạt động kinh tế khác của đất nước Israel, cũng như sinh hoạt của người dân nước này hầu hết không bị ảnh hưởng và vẫn diễn ra bình thường.
Mặc dù là đồng minh số 1 của Mỹ ở Trung Đông và thế giới, Israel vẫn cho rằng phải tự lực tự cường về quân sự, với chính sách quốc phòng riêng và dựa vào sức mình là chính. Để có sự “độc lập” tối đa, Israel không ký bất kỳ hiệp ước liên minh nào với Mỹ. Ngay cả hệ thống phòng chống tên lửa Patriot của Mỹ khi đưa sang Israel trong cuộc chiến Vùng Vịnh II để chặn tên lửa Scud của Iraq, Israel cũng thấy bất cập vì Patriot gần như bất lực và quá tốn kém khi đối phó với các tên lửa “tự chế” của Hamas.
Một số điểm nổi bật:
- Ba tổ hợp quân sự của Israel là Elbit System, Israeli Aerospace Industries và Rafael nằm trong số 100 công ty sản xuất vũ khí lớn nhất thế giới. Israel xuất khẩu tới 90% vũ khí sản xuất và hàng năm thu về 3 tỷ USD từ xuất khẩu vũ khí;
- Các vũ khí của Israel thường được tích hợp rất nhiều tính năng về tầm bắn, mức độ công phá, khả năng sát thương… so với các vũ khí tương tự như của Mỹ, Nga và quan trọng là giá cả lại cạnh tranh hơn rất nhiều. Lấy súng tiểu liên GALIL của Israel so với AK47 làm ví dụ. Đạn sử dụng cho GALIL có đường kính 5,56mm, so với 7,2 mm của AK47, mức độ giật thấp hơn (dễ sử dụng cho lính nữ, mà lính nữ Israel khá đông), điều đó cho phép người lính khi ra trận mang được cơ số đạn nhiều hơn. Theo “triết lý” của người Israel, tuy mức sát thương của GALIL không cao như AK47, nhưng lại có hậu quả lớn. Một là, khi ít người bị chết trận trong chiến tranh thì sự lên án và sức ép quốc tế giảm; Hai là, khi có người lính bị chết thì thông thường đối phương sẽ bỏ lại, nhưng nếu có người lính bị thương thì cần 2, 3 đồng đội dìu và do đó sẽ làm giảm sức chiến đấu của đối phương hoặc tạo ra mục tiêu mới để tiêu diệt; Ba là, làm cho đối phương chịu các hệ quả xã hội lâu dài khi chăm sóc thương binh (vì nếu lính tử thương thì chỉ lo môt lần), và do đó các tiếng nói phản chiến, hoặc gánh nặng xã hội từ bên đối phương sẽ khiến họ phải cân nhắc nhiều hơn các quyết định chiến tranh sau này.
- Tuy dân số ít, nhưng Israel duy trì được quân số thường trực khá lớn nhờ có luật nghĩa vụ quân sự bắt buộc đối với cả nam (36 tháng) và nữ (24 tháng) – trừ những người Israel gốc Arab hoặc một số ít người được miễn vì lý do tôn giáo, và những người đã khi phục vụ nghĩa vụ quân sự xong đều được đưa vào danh sách lính dự bị. Trong quân đội Israel, lính nữ có vai trò thực sự chứ không phải “lính cảnh” khi họ góp tới 1/3 quân số, chiếm tới 51% tổng số sĩ quan. Đây có thế không hẳn là điểm yếu. Do hầu hết những người trưởng thành ở Israel được tôi luyện trong môi trường quân đội, huấn luyện bài bản về bản lĩnh, tính kỷ cương, và sự quyết đoán, nên tác phong này lan tỏa trong toàn bộ xã hội ở khía cạnh tích cực nhất.
Việc người Do Thái có các nhóm vận động và tác động vào nền chính Mỹ rất mạnh là điều hiển nhiên, và mọi người đều biết. Các nghị sĩ gốc Do Thái thống thường chiếm khoảng 10% trong tổng số 534 nghị sĩ Mỹ và nhiều chính trị gia tầm cỡ gốc Do Thái như cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, ứng cử viên tổng thống Joe Lieberman… có ảnh hưởng lớn đến các quyết sách của Mỹ đối với Israel và an ninh của Israel.
Tuy nhiên, có điều ít người biết về quy tắc “không thành văn” là để vào được vòng cuối, các ứng cử viên Tổng thống Mỹ ngoài việc phải tuyên thệ trung thành với Mỹ, họ phải thuộc nằm lòng câu sẽ bảo vệ an ninh của Israel và thúc đẩy quan hệ đồng minh Mỹ-Israel sau khi đắc cử. Nói đúng nghĩa thì đó là sự vận động “ngược” để được các nhóm vận động Do Thái hậu thuẫn. Nếu không, chắc chắn họ sẽ bị đánh bật từ “vòng gửi xe”.
Không chỉ có vậy, báo chí, và các nhóm vận động có ảnh hưởng của người Do Thái còn “soi” rất kỹ tiểu sử và các phát ngôn của các lãnh đạo cấp cao trong tương lai nữa xem họ có thực sự nghĩ và làm đúng như điều họ nói không. Gần đây nhất, cựu Thượng nghị sĩ Chuck Hagel suýt bị Thượng viện Mỹ (mà hầu hết là “đồng nghiệp” khi Hagel làm Thượng nghị sĩ) cho “té đài”. Số phiếu Thượng viện bỏ cho Hagel với cương vị Bộ trưởng Quốc phòng là 56/100 trong khi theo quy định phải là 60/100 và cuối cùng các nghị sĩ phải “sửa” quy định bỏ phiếu thì Hagel mới “thoát”. Chả là khi còn là Thượng nghị sĩ của Nebrasca, có lần “nóng mắt” vì sự lộng hành của các Nhóm vận động Do Thái mà Hagel buông ra câu: “Tôi không phải là Thượng nghị sĩ Israel, mà là Thượng nghị sĩ Mỹ” (nguyên văn: I am not an Israeli Senator, I am a United States Senator)!
“Chủ nghĩa xã hội” kiểu Israel
Tư tưởng “xã hội chủ nghĩa” như tự do, bình đẳng, bác ái in rất đậm nét trong tư duy, nền tảng chính trị và xã hội của Israel. Khi tiếp xúc với các giới khác nhau của Israel như như học giả, nhà ngoại giao, kinh tế gia và quan chức chính quyền, họ không những không phủ nhận, mà còn rất tự hào về điều này. Về hình thức có thể thấy như sau:
Một là, các Kibbudz (Công xã của người Do Thái), tương tự như một số “anh em” ở các nước khác như Nông trang tập thể (Liên Xô cũ); Công xã nhân dân (Trung Quốc) hay hợp tác xã của ta. Trong khi hầu hết những người anh em khác đều đã “thăng thiên” thì Kibbudz vẫ sống khỏe, và đang chuyển mình rất mạnh từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang mô hình quản lý hiện đại, có các trung tâm nghiên cứu, sản xuất các mặt hàng công nghệ cao, thiết bị quốc phòng… Hiện tại ở Israel có khoảng 270 Kibbudz, thu hút 100.000 người sinh sống, đóng góp khoảng 12% sản phẩm công nghệ cao và 40% sản lượng nông nghiệp xuất khẩu của Israel.
Các Kibbudznik là những cư dân sống trong các Kibbudz trên cơ sở tự nguyện, không có bất kỳ sở hữu riêng mà làm chung, hưởng chung, sinh hoạt chung và được Kibbudz cung cấp nhà cửa, chăm sóc y tế, trông giữ con cái. Nếu muốn, bất kỳ người Israel nào cũng có thể “làm đơn” xin vào Kibbudz nếu chấp nhận các nguyên tắc, luật lệ chung (do từng Kibbudz đặt ra), ngoài ra họ có thể dời bỏ các Kibbudz bất kỳ lúc nào nếu cảm thấy không còn phù hợp.
Hai là, Công đảng Israel (đảng của người lao động, có nhiều thiên hướng xã hội chủ nghĩa) được sáng lập bởi những người Do Thái trở về từ Liên Xô khi Nhà nước Do thái ra đời năm 1948. Do đó, họ mang nặng ý thức hệ và chịu ảnh hưởng bởi ý thức hệ chủ nghĩa xã hội từ Liên Xô. Từ năm 1948-1977, Công đảng đóng vai trò chi phối hệ thống chính trị Israel, và vai trò “độc quyền” này chỉ bị Đảng Likud “hạ bệ” vào năm 1977.
Ba là, trong giai đoạn 1948-1977, vai trò của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối nền kinh tế Israel. Sở dĩ nhà nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn là do ngoài ý thức hệ, Israel còn được nhận khoản tiền bồi thường rất lớn từ nước Đức do gây ra nạn diệt chủng Holocaust nên dễ bề thao túng chính sách. Tuy nhiên, từ giữa những năm 1970, cùng với sự thay đổi chính trị, kinh tế cũng có những thay đổi theo hướng thị trường với sự ra đời của các doanh nghiệp tư nhân và tiến trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Các đồng nghiệp Israel cho biết, khi sinh thời, Thủ tướng và người sáng lập Nhà nước Do Thái David Ben Gurion rất ngưỡng mộ Hồ Chủ Tịch và phong trao đầu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Còn các Tưỡng lĩnh Israel thì coi Võ Nguyên Giáp là nguồn cảm hứng.
Về nguồn gốc tư tưởng “xã hội chủ nghĩa” của người Do Thái, nhiều đồng nghiệp Israel cho rằng có thể lần ngược đến thời kỳ Kinh Thánh ra đời, và trong kinh thánh tiếng Hebrew của người Do Thái đã ghi rõ cả việc đối xử bình đẳng, không chỉ giữa người với nhau, mà còn với cả nô lệ và súc vật nữa. Ngoài ra, suy nghĩ đó còn được hình thành một cách bản năng, ẩn sâu trong suy nghĩ của họ xuất phát từ việc trong hơn 2000 năm chịu thân phận lưu vong, hèn mọn. Do điều kiện sống khắc nghiệt, lại bị miệt thị, khinh rẻ, trong khi phải “chiến đấu” để bảo vệ bản sắc và tôn giáo Do Thái của mình, nên người Do Thái không có cách nào khác hơn là phải sống nương tựa vào nhau, an ủi nhau, cũng chịu “thử thách của chúa” cho đến “ngày trở về Jerusalem”.
Vấn đề bảo vệ nguồn nước
Hiện nay ở phương Tây, và kể cả Việt Nam nữa, đang có phong trào thách đố nhau tự dội nước đá vào đầu (Ice Bucket Challenge) để góp tiền chữa trị bệnh ALS và để thử thách lòng “can đảm” của nhau (mặc dù ở ta mới thấy có một số người dội nước nhưng chưa thấy đóng tiền, có thể vì chẳng biết đóng ở đâu, đóng cho ai và tiền đó có đến tay bệnh nhân ALS hay không…!). Đặt câu chuyện này trong xã hội Israel thì thấy có phần “nhảm nhí”, cả người khởi xướng và người thực hiện có thể phải “ngồi bóc lịch”, bởi lẽ:
- Do nước là “vàng trắng”, nên Israel là một trong rất ít nước có luật ghi rất chặt chẽ về việc sử dụng nước, phạt rất nặng các hành vi gây ô nhiễm nguồn nước và sử dụng nước lãng phí;
- Cả nước Israel có một hồ nước ngọt duy nhất là Hồ Galile, còn sông Jordan gần như đã cạn kiệt và có thể “nhảy” qua được ở đáy sông vào bất kỳ mùa nào trong năm. Khi làm việc với Đại sứ Dore Gold, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu các vấn đề công cộng Jerusalem (nguyên Đại sứ Israel tại Liên Hợp Quốc và cố vấn an ninh và đối ngoại của Thủ tướng Netanyahu), bạn cho biết tất cả các báo lớn trong nước sẽ chạy tít hàng đầu nếu có tin mực nước Hồ Galile thấp hơn khoảng 1cm so với năm trước, và cả nước sẽ hân hoan, sung sướng nếu nghe tin nước Hồ Galile cao hơn chỉ 0,5cm!
- Có điều khá ngạc nhiên là ngay cả khi thực hiện chiến dịch Protective Edge chống Hamas vừa qua, Israel không cắt nước và cắt điện cung cấp cho Dải Gaza (phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung của Israel), mặc dù điều này có thể khiến việc chống Hamas dễ dàng hơn vì sợ sẽ gây thảm họa nhân đạo.
- Việc thực hiện “Ice Bucket Challenge” không chỉ gây lãng phí nước, mà còn cả lãng phí điện (để làm lạnh nước nữa);
Lập luận của người Do Thái là: Một, nếu thực sự quan tâm thì cứ đóng tiền, chứ sao phải dội nước. Hai, còn có rất nhiều hình thức khác vừa “vui nhộn”, vừa tạo sự quan tâm hơn của cộng đồng, mà không cần phải dội nước. Ba, tại sao lại tập trung dồn tiền cho nghiên cứu ALS lớn đến như vậy vì trên thế giới cứ 6000 người, mới có một người mắc ALS. Tạo sao lai không dành tiền và nguồn lực để tạo sự quan tâm của cộng đồng cứu chữa những căn bệnh khác còn nguy hiểm hơn nhiều, như Ebola chẳng hạn. Và còn rất nhiều các lập luận khác nữa. Điều đó, cho thấy trong văn hóa tranh luận và chính trị của người Do Thái, họ luôn nhìn vấn đề từ rất nhiều các góc độ khác nhau để tìm vấn đề và đưa ra giải pháp.
Quốc gia khởi nghiệp
“Quốc gia khởi nghiệp: Câu chuyện về sự thần kỳ kinh tế của Israel” (nguyên văn: Start-up Nation: The Story of Israel’s Economic Miracle) là cuốn sách của tác giả Dan Senor và Saul Singer in năm 2009 và được khá nhiều người Việt biến đến với bản dịch tiếng Việt in sau đó. Khi đặt chân đến đất nước này, cảm nhận về “quốc gia khởi nghiệp” ngày một rõ nét hơn. Trong trao đổi, các quan chức của bạn nhắc không dưới 15 lần với sự tự hào và kiêu hãnh. “Start-up nation” không chỉ gợi cho mọi người thấy về một đất nước Israel non trẻ, khao khát vươn lên; là nơi các công ty khởi nghiệp (chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ cao) chen vai thích cánh; mà còn là cách biểu đạt mới để định vị Israel trên bản đồ công nghệ của thế giới. Start-up Nation không chỉ là câu nói xuông, mà là khẩu hiệu hành động của chính phủ; sự hỗ trợ của cộng đồng và thiết chế; và sự hưởng ứng của trí thức/giới doanh nhân trẻ tạo sự đột phá cho Israel.
Israel chọn hướng đi với thương hiệu “Start-up Nation” là có những lý do riêng của mình:
- Là nước nhỏ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và không có tài nguyên, nên muốn vươn lên thì Israel không có cách nào khác hơn là phải dựa vào nguồn chất xám, đầu tư cho nghiên cứu khoa học và tập trung vào các ngành mũi nhọn có khả năng sinh lời “vô hạn”. Chính sách này được Israel thực thi từ khi lập nước, nhưng chỉ mới thực sự đẩy mạnh từ cuối những năm 1970 đến nay. Technion, tức Viện công nghệ Israel (Israel Institute of Technology) có thể sánh ngang với MIT của Mỹ, còn các trường Hebrew University, Tel Aviv University, Ben Gurion University cũng được xếp vào hàng 50 trường Đại học tốt nhất thế giới. Tỷ lệ số người có bằng đại học/tổng số nhân lực tại Israel là 24,5%, cao vào hàng thứ ba thế giới (sau Mỹ và Hà Lan). Hầu hết các “đại gia” phần mềm, công nghệ lớn của thế giới như Apple, Google, Microsoft đều có chi nhánh nghiên cứu, phát triển sản phẩm tại Israel để tận dụng nguồn chất xám có chất lượng tại nước này
- Người Israel luôn có hàng núi các “ý tưởng”: Trong thời đại ngày nay sức mạnh để cho bất kỳ cá nhân, thiết thế, đất nước đi lên phải bắt đầu từ việc “đẻ” ra càng nhiều ý tưởng mang tính táo bạo, đột phá càng tốt. Cái này cũng giống như câu các cụ nhà ta đúc kết từ lâu: “một người biết lo bằng kho người biết làm”, nhưng chưa được hậu duệ học và làm đến nơi đến chốn. Quả thực, trong thời đại ngày nay, cái quan trọng tạo ra sự khác biệt, tạo ra sự bứt phá là phải là ý tưởng, hiện thực hóa ý tưởng và kinh doanh ý tưởng. Nếu có ý tưởng tốt thì hoàn toàn có thể thuyết phục và thu hút vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thiếu lao động thì có thể ra thị trường trong hoặc ngoài nước thuê mướn. Nhưng không có ý tưởng táo bạo thì chỉ nội đi làm, gia công thuê đến bị vắt kiệt sức cũng không đủ ăn.
- Phù hợp với đặc tính đất nước Israel là nhân lực có hạn, nhưng lại rất thông minh và trong kỷ nguyên kỹ thuật số (Digital Era) thì cái chính là có lực lượng “tinh” và “chuyên” , chứ không phải là “lượng”. Các công ty “Start-up” về công nghệ khác với các công ty sản xuất và dịch vụ là thường sử dụng rất ít lao động (khoảng từ 8-25, và tối đa là 40-50 người), chủ yếu là các kỹ sư mới ra trường. Tuy gọi là mới ra trường, nhưng kỹ sự của Israel thường “già dặn” hơn kỹ sự trẻ mới ra trường của các nước khác cả về tuổi đời lẫn sự từng trải do hầu hết sinh viên Israel đều trải qua đời quân ngũ trước khi vào đại học. Sự kết hợp hoàn hảo giữa sự chín muồi về tuổi tác, bản lĩnh “gan lì” của người lính, tính sáng tạo của một nhà khoa học, sự khao khát tìm lợi nhuận hầu như đều tồn tại trong mỗi CEO của các công ty Start-up và do vậy giúp họ vững tin trước các sóng gió trên thương trường.
- Các kỹ sư công nghệ sau khi tốt nghiệp ra trường đều được khuyến khích cả tài chính lẫn chính sách để mở các công ty Start-up, và được khích lệ bởi các tấm gương thành công như phần mềm dẫn đường WAZE bán lại cho Google được 1,3 tỷ USD. Nếu như thất bại, các kỹ sư trẻ này đi làm cho các công ty đa quốc gia ngay tại Israel hay làm việc tại nước ngoài. Sau một thời gian tích lũy cả thêm kinh nghiệm và xây dựng các công ty mới, và lần này khả năng thành công của họ lớn hơn rất nhiều. Ở Israel, Văn phòng khoa học gia trưởng OCS (Office of the Chief Scientist) thay mặt chính phủ xem xét va quyết định hồ sơ vay vốn ưu đãi của các công ty khởi nghiệp vì nhiều ngân hàng sợ rủi ro không dám đầu tư và số tiền này có thể lên tới 500.000 USD. Đầu tư cho chính phủ dành cho các công ty khởi nghiệp ở Israel tính theo đầu người hiện vào khoảng 270 USD (mức cao nhất thế giới), so với 170 USD của Mỹ. Trong hầu hết các trường hợp OSC chọn cách đầu tư, và hy vọng nếu công ty khởi nghiệp thành công thì họ sẽ thu vốn và lời từ bán cổ phần, còn nếu công ty thất bại thì họ coi đó là một khoản đầu tư rủi ro. Bên cạnh đó, hiện rất nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm tiến hành đầu tư vào các công ty khởi nghiệp Israel theo hình thức trên. Nếu tính theo số tiền đầu tư/đầu người, số tiền Israel thu hút được từ các quỹ mạo hiểm này lớn gấp 30 lần so với châu Âu.
Di sản lịch sử
Đến Jerusalem, thăm khu phố cổ (chỉ vẻn vẹn 1km2), được nghe và xem về các bằng chứng lịch sử khu vực này trong suốt trên 3000 năm mới cảm nhận được tính phức tạp của các vấn trong nội bộ một tôn giáo, giữa ba tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa và Đạo Hồi) với nhau, và các biến động lịch sử, các cuộc chiến tôn giáo, rồi các cuộc thay ngôi, đổi chủ. Chẳng hạn:
- Bất cứ một con đường, một nhà thờ, một ngôi nhà, một khu dân cư… đều đậm nét lịch sử hình thành và tồn tại riêng. Các bằng chứng khảo cổ học trong khu Thành cổ không chỉ trùng khớp với những gì ghi trong kinh thánh của cả 3 tôn giáo, mà còn ẩn chứa trong đó các giai tầng văn hóa, lịch sử tầng tầng, lớp lớp;
- Ba tôn giáo lớn (Do Thái, Thiên chúa và Đạo Hồi) tuy kình chống nhau quyết liệt, nhưng vẫn tìm cách chung sống hòa bình. Như căn phòng có bữa tiệc cuộc cùng (trước khi Đức chúa bị hành hình) không chỉ có các kiến trúc của đạo Thiên chúa, mà còn các dấu ấn Hồi giáo như nơi làm lễ hướng về Mecca của người Hồi giáo. Ví dụ, như ngay phía dưới căn phòng này là Mộ của Vua David – Vị Vua có công thống nhất đất nước Do Thái. Với cả 3 tôn giáo đều có sự hiện diện trong căn phòng và tòa nhà này, vậy nếu phân chia sở hữu thì sẽ chia như thế nào? Một ví dụ khác là Nhà thờ Hồi giáo mái vàng (Dome of the Rock) được xem là một trong 3 nơi thiêng liêng của người Hồi giáo, nhưng lại đươc xây trên tảng đá linh thiên của người Do Thái ngay sau khi Ngôi đền của họ bị “đốt”.
- Việc thảo luận về quy chế của Jerusalem không thể chỉ diễn ra giữa Palestine và Israel, mà còn phải tính đến thái độ của cả 1 tỷ người theo đạo Thiên chúa sống rải rác khăp nơi trên thế giới vì họ cũng coi đây là “đất tổ” của mình. Đáng chú ý là ngay Nhà thờ Mộ chúa trong thành cổ Jerusalem có tên là “Church of the Holy Sepulchre”, gồm 6 nhánh của Thiên chúa giáo như Nhà thờ Ethiopia, Nhà thờ Ai cập, Nhà thờ chính thống Armenia hay Nhà thờ chính thống Nga… Như vậy, để hiểu được văn hóa chính trị Trung Đông thì điều cốt yếu là phải hiểu được các vấn đề tôn giáo ở khu vực.
Trở lại vấn đề Israel, hầu hết những người nghiên cứu chính trị Israel, nắm được tư duy Do Thái, và tính phức tạp trong cấu trúc kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo Israel đều có nhận định chung là: tuy chỉ có hơn 8 hơn triệu dân, nhưng hệ thống chính trị của Israel được xem là hệ thống chính trị phức tạp nhất thế giới. Điều này là do:
- Người Do Thái rất thông minh, rất nhiều ý kiến;
- Cấu trúc hệ thống chính trị Israel buộc các chính trị gia phải tiếp xúc, lắng nghe và đưa tiếng nói của người dân (hoặc các đại diện của người dân) khi ra các quyết sách;
- Bất kỳ người Israel nào cũng cho rằng mình có khả năng nắm cương vị cao nhất của đất nước. Họ thậm chí còn chất vấn gay gắt ông Thủ tướng về các quyết định của mình, cho rằng “ông Thủ tướng cũng đi tỵ nạn ở châu Âu như chúng tôi, vậy tại sao ông ấy lại gạt bỏ chúng tôi trong các quyết định của mình”.
Trước đây khi đọc câu nói của bà Golda Meir (vị nữ Thủ tướng dân cử thứ ba của thế giới) khi gặp Tổng thống Nixon rằng, “ông là Tổng thống của 150 triệu dân, còn tôi là Thủ tướng của 6 triệu Thủ tướng” thì chưa thực sự biết hàm ý câu này. Giờ mới thấy rõ ý câu này là làm chính trị ở Israel khó hơn ở Mỹ và Mỹ không nên hiểu, không ép Israel một cách quá mức.
Tác giả: Hoàng Anh Tuấn
TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.